Tu trì Mật Tông Tây Tạng thông thường được chia thành bốn giai đoạn, bốn giai đoạn này có sự tương ứng phù hợp với bốn bộ kinh điển Tạng mật. Kinh điển Tạng mật chia thành bốn bộ đó là: Sự bộ, Hành bộ, Du già bộ và Vô thượng Du già bộ và nó có mối liên hệ tương hỗ với cách thức tu trì cùng với các đặc điểm trong Mật pháp. Hành bộ cùng coi trọng sự tướng và quán tưởng, phái Ninh Mã trong Phật Giáo Tạng truyền cũng có tên gọi khác là Lưỡng cầu thừa; Hành bộ cũng gọi là Nhị Tục, bao gồm hành vi ứng xử bên ngoài và tu tập Du già bên trong, tất cả chia thành tam bộ gồm thân, ngữ và ý. Thân bộ là mấu chốt trong tam bộ, tiếp đó đến hành bộ thực tiễn lại chia ra quán đỉnh thành thục, giải thoát đảo quả vị thành tựu và quán đỉnh thành thục; về cơ bản, giống với Sự bộ, Du già bộ lấy quán pháp ngũ tướng thành thân làm chủ; đặc điểm của Vô thượng Du già bộ là lấy việc tu trung mạch (mạch giữa), phong thức, minh điểm làm chủ, bộ này chia ra Phụ tục, Mẫu tục và Vô nhị tục, khi Phụ tục có lúc đồng nghĩa với Du già thượng sư tục, Phương tiện tục, đại Du già tục, có lúc thì đem Vô thượng Du già tục quy về trong Mẫu tục. Mẫu tục với Trí tuệ tục và Du già mẫu tục đồng nghĩa. Phụ tục biểu thị phương tiện, chủ yếu bao gồm Phụ tôn Mạn Trà La và thứ tự sinh khởi có khác biệt, chân ngôn và nghi thức lễ pháp, nhưng không đại diện cho mật chú và nghi thức lễ pháp thù thắng nghi cữu của Bản tôn Phật mẫu trí tuệ. Trong Mẫu tục bao gồm có toàn bộ những pháp khác biệt với Phụ tục, đến Phụ tục khác không có nhiều loại yếu pháp; Vô nhị tục dung hợp phương tiện và trí tuệ của Phụ tục và Mẫu tục.
Sau Quán Đỉnh Trí Tuệ phải chăng thực sự có thể thu được trí tuệ Vô thượng?
Quán đỉnh Trí tuệ chỉ phép tu song thân dưới sự dẫn dắt của thượng sư. Người nhận quán đỉnh quán tưởng tay tái của mình nắm Phật Mẫu Bát